Trong thế kỷ 21, già hóa dân số là một quá trình mang tính toàn cầu và được đánh giá là một trong những xu thế phát triển xã hội có ảnh hưởng sâu rộng nhất. Ước tính, mỗi giây trôi qua, trên thế giới có hai người bước sang tuổi 60. Năm 2020, lần đầu tiên ghi nhận số người từ 60 tuổi trở lên trên toàn cầu vượt số trẻ em dưới 5 tuổi, đồng thời dân số cao tuổi đạt ngưỡng 1 tỷ người. Con số này được dự báo sẽ tiếp tục tăng lên khoảng 1,4 tỷ người vào năm 2030 và đạt 2,1 tỷ người vào năm 2050. Đặc biệt, mặc dù xu hướng già hóa dân số khởi phát tại các quốc gia phát triển và có thu nhập cao, hiện nay quá trình này đang diễn ra ngày càng rõ nét tại các nước đang phát triển.
Việt Nam không nằm ngoài xu hướng già hóa dân số toàn cầu và theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới, thậm chí là một trong những quốc gia có tốc độ già hóa dân số nhanh nhất. Chỉ vừa bước qua hai cuộc chiến tranh khốc liệt bảo vệ Tổ quốc cách đây 50 năm, Việt Nam hăm hở bước vào giai đoạn phát triển và chính thức bước vào thời cơ dân số vàng từ năm 2007 – thời điểm mà tỷ lệ dân số trong độ tuổi lao động đạt mức cao, mở ra nhiều kỳ vọng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế – xã hội. Tuy nhiên, ít được nhận thức đầy đủ rằng, song song với thời kỳ dân số vàng, Việt Nam cũng bước vào giai đoạn “già hóa dân số” (hay “dân số đang già”) từ năm 2011, khi tỷ lệ người từ 60 tuổi trở lên lần đầu tiên vượt ngưỡng 10% tổng dân số. Theo Tổng cục Thống kê, năm 2024, Việt Nam có khoảng 14,2 triệu người cao tuổi (NCT), chiếm 14% tổng dân số. Theo một nguồn thông tin khác do Bộ Công an cung cấp, con số này có thể lên tới 16,1 triệu người, tương đương khoảng 16% dân số. Trái ngược với tỷ suất sinh có xu hướng ổn định trong giai đoạn 2009-2022 và bắt đầu giảm trong những năm gần đây, tỷ lệ NCT trong dân số lại có chiều hướng gia tăng liên tục và với tốc độ ngày càng nhanh. Tổng cục Thống kê dự báo đến năm 2036, Việt Nam sẽ bước vào giai đoạn “dân số già” (khi tỷ lệ người từ 60 tuổi trở lên chiếm khoảng 20% tổng dân số, hoặc tỷ lệ người từ 65 tuổi trở lên đạt 14%), và đến năm 2056 thì bước vào giai đoạn dân số “siêu già” (tỷ lệ người từ 60 tuổi trở lên tiên chiếm 30% tổng dân số hoặc người từ 65 tuổi trở lên chiếm 21% tổng dân số). Như vậy, chỉ trong vòng 25 năm kể từ thời điểm bước vào giai đoạn già hóa dân số vào năm 2011, Việt Nam dự kiến sẽ hoàn tất quá trình chuyển đổi nhân khẩu học và chính thức trở thành quốc gia có dân số già. Đây là một tốc độ già hóa rất nhanh nếu so sánh với các quốc gia phát triển: Pháp mất khoảng hơn 100 năm để chuyển đổi, Thụy Điển 85 năm, Úc 73 năm và Hoa Kỳ 69 năm.
Đáng chú ý, Việt Nam đặt mục tiêu trở thành quốc gia phát triển có thu nhập cao vào năm 2045. Điều này đồng nghĩa với việc đất nước sẽ phải thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược: vừa thúc đẩy tăng trưởng nhanh và bền vững để đạt mục tiêu phát triển, vừa thích ứng linh hoạt với những chuyển đổi sâu sắc trong cơ cấu dân số. Để đạt được điều đó, cần có cái nhìn toàn diện và chủ động trước tiến trình già hóa dân số – không chỉ nhận diện rõ những rủi ro và thách thức để có giải pháp ứng phó hiệu quả, mà đồng thời quan trọng không kém, cũng cần phân tích và khai thác các cơ hội và lợi thế mà già hóa mang lại.
Thách thức của già hóa dân số tại Việt Nam
Tình trạng “già trước khi giàu”, tất yếu kéo theo không ít vấn đề đáng quan tâm. Ở góc độ vĩ mô, khi lực lượng lao động suy giảm trong khi tỷ lệ người phụ thuộc tăng lên, nền kinh tế sẽ đối mặt với nguy cơ sụt giảm năng suất và tăng gánh nặng chi tiêu công, đặc biệt trong lĩnh vực y tế, an sinh xã hội và chăm sóc dài hạn. Đối với một quốc gia có mức tích lũy vốn xã hội và tài chính còn hạn chế như Việt Nam, quá trình chuyển dịch sang “dân số già” nếu không được chuẩn bị thích ứng kỹ lưỡng có thể dẫn đến rủi ro mất cân đối ngân sách, quá tải hệ thống dịch vụ công, và làm trầm trọng hơn bất bình đẳng xã hội. Báo cáo “Việt Nam: Thích ứng với Xã hội Già hóa” do Ngân hàng Thế giới và Cơ quan Hợp tác Quốc tế Nhật Bản phối hợp thực hiện dự báo rằng nếu không có những chính sách thích ứng kịp thời và toàn diện, tốc độ tăng trưởng dài hạn của Việt Nam trong giai đoạn 2020-2050 có thể giảm khoảng 0,9 điểm phần trăm so với mức tăng trưởng trung bình 15 năm trước đó, do tác động của quá trình chuyển dịch sang cơ cấu dân số già. Đồng thời, chi phí đáp ứng các nhu cầu gia tăng của một xã hội già hóa cũng được ước tính sẽ chiếm thêm từ 1,4% đến 4,6% tổng sản phẩm quốc nội (GDP), để dễ hình dung, mức này cao gấp đôi tỷ lệ chi tiêu quốc phòng của Việt Nam.
Ở góc độ vi mô, với cá nhân NCT, tình trạng thu nhập và an sinh của họ đối mặt với nhiều thách thức đáng kể. Theo thống kê, chỉ khoảng 39% NCT được hưởng lương hưu, bảo hiểm xã hội, trợ cấp xã hội, hoặc chế độ người có công; phần lớn còn lại phải dựa vào sự hỗ trợ từ con cháu hoặc tự lao động để trang trải cuộc sống. Ngay cả đối với nhóm đã được bao phủ bởi các chính sách an sinh, mức hỗ trợ hiện nay cũng chưa thực sự đáp ứng đầy đủ nhu cầu và là một tấm lưới vững chắc cho NCT, đặc biệt trong bối cảnh giá cả hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng tăng cao. Ví dụ, Chính phủ đã ban hành Nghị định 76/2024/NĐ-CP, điều chỉnh tăng mức chuẩn trợ giúp xã hội từ 360.000 đồng lên 500.000 đồng/tháng từ ngày 1/7/2024. Mặc dù đây là nỗ lực đáng ghi nhận nhằm cải thiện đời sống cho các đối tượng bảo trợ xã hội, trong đó gồm có NCT không có lương hưu hoặc trợ cấp bảo hiểm xã hội hàng tháng, mức điều chỉnh lên cũng mới tương đương 50% chuẩn mức sống tối thiểu tại khu vực nông thôn (1.000.000 đồng/tháng), và chưa bằng 40% so với mức chuẩn tại khu vực thành thị (1.300.000 đồng/tháng). Ngoài ra, Điều tra quốc gia về NCT Việt Nam năm 2021, do Bộ Y tế phối hợp với Ngân hàng Phát triển Châu Á thực hiện, cho thấy gần 1/4 (24%) NCT cho biết thu nhập không đủ đáp ứng chi tiêu hằng ngày; chỉ khoảng 15% có khoản tiền tiết kiệm để dự phòng cho các rủi ro thường gặp ở tuổi cao như bệnh tật, tai nạn hoặc thiên tai. Đáng chú ý, tỷ lệ NCT thuộc hộ nghèo là 3,6%, cận nghèo là 11,6%; cao hơn bình quân chung cả nước và đặc biệt tập trung ở vùng sâu, vùng xa và vùng dân tộc thiểu số. Trong khi đó, NCT vẫn còn gặp phải những rào cản nhất định trong việc tiếp cận vốn vay, chưa được chú trọng dạy nghề, hoặc được hỗ trợ tìm kiếm/chuyển đổi việc làm sau giai đoạn nghỉ hưu.
Về sức khỏe, tuổi thọ của người Việt Nam đã tăng cao, với mức trung bình là 75,6 tuổi, đứng thứ hai trong khu vực và đứng thứ 56 trên thế giới. Tuy nhiên, gánh nặng bệnh tật của người Việt cũng lớn, tức là sống lâu những thời gian đau ốm trong cả cuộc đời cũng đáng kể, khoảng 15,3 năm. Trung bình một NCT Việt Nam mắc 3 bệnh với khoảng 95% NCT có bệnh, chủ yếu là bệnh mạn tính cần điều trị suốt đời như huyết áp, đái tháo đường, thoái hóa xương khớp, ảnh hưởng nhiều đến chất lượng cuộc sống. Ngoài ra, nhiều NCT còn phải đối mặt với tình trạng suy giảm chức năng, cần sự hỗ trợ trong sinh hoạt hàng ngày, làm tăng nhu cầu về dịch vụ chăm sóc dài hạn. Theo Tổng điều tra Dân số năm 2019, cứ 5 NCT thì có 1 người (20,7%) sống chung với khuyết tật, gặp khó khăn hoặc hạn chế trong các chức năng như nhìn, nghe, di chuyển, nhận thức. Trên thực tế, phần lớn người khuyết tật ở Việt Nam hiện nay là NCT, chiếm tới 72,2%. Tuy nhiên, các chương trình hỗ trợ hòa nhập cộng đồng và phục hồi chức năng hiện vẫn còn tập trung chủ yếu vào nhóm người trẻ tuổi, trong khi nhu cầu tương ứng của NCT lại chưa được đáp ứng đầy đủ.
Đa số NCT Việt Nam khi ốm yếu vẫn phụ thuộc vào sự chăm sóc của con cháu là chính. Bản thân những người chăm sóc là thành viên gia đình thường thiếu các kiến thức, kỹ năng cũng như thời gian chăm sóc. Công tác đào tạo bài bản và tổ chức chính quy ngành nghề chăm sóc NCT còn hạn chế hoặc chưa có. Rất thiếu các dịch vụ chăm sóc dài hạn và hỗ trợ xã hội một cách toàn diện và thuận tiện để hỗ trợ bản thân NCT cũng như gia đình của NCT. Số lượng các cơ sở chăm sóc NCT như trung tâm dưỡng lão, bảo trợ xã hội, chăm sóc ban ngày/ngắn ngày,…còn ít và chưa đủ chất lượng. Hiện nay hầu như các dịch vụ này tập trung tại các thành phố, đô thị lớn. Trong khi đó, phần lớn NCT sống ở khu vực nông thôn (chiếm 63,28%) và ít có khả năng chi trả. Cũng chưa có sự liên kết hiệu quả về cơ sở dữ liệu và tích hợp các dịch vụ chăm sóc dành cho NCT tại cộng đồng để cung cấp hỗ trợ toàn diện, thuận tiện hơn. Hệ thống bảo hiểm y tế hiện nay, dù đã bao trùm phần lớn NCT, chưa có cơ chế chi trả cho các dịch vụ chăm sóc dài hạn hoặc phòng ngừa bệnh tật, chấn thương (VD: phòng tránh ngã ở NCT).
Bên cạnh đó, sức khỏe tâm thần của NCT cũng là một lĩnh vực khác cần đặc biệt quan tâm hơn. Điều tra quốc gia về NCT Việt Nam năm 2021 cho thấy hơn 27% NCT được khảo sát có biểu hiện trầm cảm, trong đó khoảng 9% có dấu hiệu trầm cảm nặng. Những con số trên phản ánh những vấn đề đã và đang tồn tại nhưng chưa được chú ý đúng mức, bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân liên quan đến điều kiện sống, yếu tố tâm sinh lý và môi trường xã hội. Trong đó, có thể kể đến tình trạng cô đơn kéo dài, hạn chế trong khả năng tham gia các hoạt động xã hội có ý nghĩa, khó khăn trong việc tự chăm sóc bản thân hay hưởng đầy đủ các quyền, lợi ích chính đáng do thiếu thông tin hoặc hạn chế trong công tác triển khai. Đặc biệt, vẫn còn đó những rào cản vô hình như định kiến về tuổi già và khoảng cách giữa các thế hệ trong gia đình và xã hội. Khoảng 35% NCT hiện đang sống trong các gia đình “khuyết thế hệ” – tức là sống một mình, sống với vợ/chồng cũng là NCT, hoặc sống cùng cháu nhỏ nhưng thiếu vắng sự hiện diện thường xuyên của con cái do đi làm ăn xa. Hình thức sống này có xu hướng tăng cao trong tương lai do sự thay đổi trong mô hình gia đình, từ nhiều thế hệ sống chung chuyển sang gia đình hạt nhân, cùng với việc con cháu ngày càng bận rộn, và xu hướng sinh ít con hơn trước. Tình trạng này làm suy giảm đáng kể mức độ gắn kết xã hội và hỗ trợ cảm xúc trong gia đình – những yếu tố có vai trò quan trọng đối với sức khỏe tinh thần và chất lượng sống của NCT.
Trên thực tế, việc tăng cường sự gắn kết “liên thế hệ” đã được nhấn mạnh trong Kế hoạch Hành động Quốc tế Madrid về NCT từ hơn 20 năm trước như một điều kiện nền tảng để đảm bảo quá trình già hóa diễn ra hiệu quả và bền vững. Trong bối cảnh thay đổi mô hình gia đình là xu hướng tất yếu, cần có các biện pháp hỗ trợ bổ sung để bảo đảm các mối liên kết liên thế hệ không bị gián đoạn, tránh để sự khác biệt và xa cách dẫn đến mâu thuẫn thế hệ. Cũng cần lưu ý rằng, sự phát triển nhanh chóng của công nghệ cố thể nới rộng khoảng cách thế hệ, vốn vẫn tồn tại giữa NCT và người trẻ. Nhiều NCT gặp khó khăn trong việc sử dụng các thiết bị công nghệ hiện đại, từ đó dẫn đến cảm giác tụt hậu, bị cô lập và hạn chế trong tiếp cận thông tin-dịch vụ.
Theo Báo cáo Tổng quan phát triển kỹ thuật số Việt Nam, đầu năm 2024, cả nước ghi nhận có 78,44 triệu người dùng internet, với tỷ lệ thâm nhập internet đạt 79,1%. Tuy nhiên, độ tuổi từ 55-64 tuổi sử dụng internet chỉ chiếm 9,9% và từ 65 tuổi trở lên chỉ chiếm 9,3%. Một nghiên cứu khác trước đó của Viện dân số, sức khỏe và phát triển, Đại học Nihon và Viện nghiên cứu Đông Á và Đông Nam Á năm 2020 cũng cho biết chỉ khoảng 12,7% NCT có thể truy cập internet. Mặc dù có sự chênh lệch nhẹ giữa các nguồn, các số liệu này đều phản ánh thực tế rằng khả năng tiếp cận và sử dụng internet của NCT hiện vẫn còn rất thấp so với các nhóm tuổi trẻ hơn – qua đó cho thấy tồn tại khoảng cách số rõ rệt theo lứa tuổi tại Việt Nam. Một nghiên cứu tại tỉnh Đồng Tháp được công bố đầu năm 2025 cũng chỉ ra rằng các dịch vụ y tế số vẫn chưa được NCT tận dụng hiệu quả, chủ yếu do hạn chế về kỹ năng sử dụng công nghệ (nguyên nhân chủ quan), thiết kế ứng dụng phức tạp với NCT và thiếu hỗ trợ kỹ thuật phù hợp (nguyên nhân khách quan). Trong bối cảnh Việt Nam đang đẩy mạnh chuyển đổi số trên nhiều lĩnh vực, việc bảo đảm mọi nhóm dân số – trong đó có NCT – có cơ hội tiếp cận và thụ hưởng thành quả của tiến bộ khoa học – công nghệ là yêu cầu cấp thiết. Do đó, cần thúc đẩy các mô hình, sáng kiến cộng đồng có khả năng hỗ trợ NCT nâng cao năng lực số, tạo điều kiện để họ duy trì kết nối xã hội, tự chăm sóc sức khỏe, tham gia vào đời sống xã hội một cách chủ động. Nếu không có các biện pháp hỗ trợ phù hợp và xây dựng môi trường thân thiện với NCT (thiết kế nhà ở, hạ tầng giao thông, dịch vụ công,..v.v..), NCT có nguy cơ bị “bỏ lại phía sau” trong quá trình chuyển đổi, làm gia tăng bất bình đẳng và hạn chế khả năng tiếp cận dịch vụ thiết yếu, đặc biệt trong lĩnh vực y tế, an sinh và kết nối xã hội.
Định kiến tuổi tác cũng là một tồn tại âm thầm những đầy thách thức trong xã hội hiện đại. Nhiều NCT cảm thấy bị đánh giá thấp, không được lắng nghe hay tham gia trọn vẹn vào các quyết sách của gia đình, địa phương. Điều này không chỉ ảnh hưởng đến lòng tự trọng mà còn làm tăng cảm giác bị cô lập và trầm cảm. Nghiêm trọng hơn, trong một số trường hợp, sự kỳ thị và thiếu hiểu biết còn dẫn đến các hành vi ngược đãi và bạo lực đối với NCT. Một nghiên cứu do Viện Nghiên cứu gia đình và giới tiến hành về người 60 tuổi trở lên ở 3 tỉnh Đắk Lắk, Phú Yên và Quảng Trị cho những kết quả đáng lo ngại: 3% số NCT được hỏi nói rằng họ có bị con cái đánh; 8,3% bị dọa nhốt trong nhà và 15% bị con cái bỏ rơi, không chăm sóc. Điều tra quốc gia về NCT năm 2021 cũng ghi nhận khoảng 16% NCT từng chịu các hình thức ngược đãi như bị bỏ mặc, bị từ chối giao tiếp hoặc bị nói nặng lời từ người thân, hàng xóm hoặc người chăm sóc. Những biểu hiện của bạo lực và lạm dụng, dù thể chất hay tinh thần, không chỉ vi phạm quyền con người của NCT mà còn cho thấy sự thiếu vắng các cơ chế bảo vệ hiệu quả tại cộng đồng. Điều này càng cho thấy tầm quan trọng của việc xây dựng các thiết chế xã hội hỗ trợ NCT – không chỉ giúp họ tăng cường năng lực tự bảo vệ, mà còn nâng cao vai trò, tiếng nói và sự kết nối của họ trong đời sống cộng đồng.
Một đặc điểm của già hóa dân số Việt Nam đó là tình trạng nữ hóa dân số cao tuổi. Phụ nữ cao tuổi chiếm gần 60% trên tổng số NCT. Ở độ tuổi càng cao, mức độ nữ hóa càng rõ, thể hiện ở tỷ số giới tính của dân số cao tuổi (số phụ nữ/100 nam giới cao tuổi trong cùng nhóm tuổi) càng tăng lên khi ở độ tuổi càng cao. Có rất nhiều các yếu tố khác nhau khiến phụ nữ dễ bị tổn thương hơn nam giới khi về già. Theo nghiên cứu của Quỹ Dân số Liên Hợp Quốc, phụ nữ có khả năng mắc các bệnh mạn tính cao hơn và dễ rơi vào cảnh nghèo khó, bấp bênh hơn nam giới, ít có cơ hội tích lũy tài chính và tiếp cận bảo hiểm xã hội. Trong điều kiện đó, phụ nữ gặp nhiều khó khăn hơn trong việc chi trả cho các dịch vụ chăm sóc y tế cần thiết. Phụ nữ cũng thường nghỉ hưu sớm hơn nam giới nhưng lại sống lâu hơn, khiến thời gian sống sau khi hết nguồn thu nhập ổn định kéo dài. Thực tế cho thấy, phụ nữ chiếm hơn 80% trong tổng số NCT đang sống góa vợ/chồng ở tất cả các nhóm tuổi. Họ dễ rơi vào cảnh sống đơn thân, góa bụa và thiếu sự hỗ trợ từ gia đình. Họ cũng ít có tiếng nói hơn trong các quyết định liên quan đến đời sống gia đình và cộng đồng. Phụ nữ cao tuổi dường như đối mặt với rào cản xã hội kép, đến cả từ phân biệt tuổi tác và giới tính. Đặc biệt, phụ nữ cao tuổi ở nông thôn, vùng sâu vùng xa hoặc dân tộc thiểu số thường là nhóm dễ bị tổn thương hơn cả. Vì vậy, trong xây dựng và triển khai các chương trình, chính sách dành cho NCT, cần tích hợp mạnh mẽ yếu tố giới để bảo đảm nguyên tắc công bằng. Việc thiết kế các mô hình hỗ trợ NCT cần tính đến đặc điểm và nhu cầu riêng biệt của phụ nữ cao tuổi, từ đó thúc đẩy sự tham gia, trao quyền và cải thiện toàn diện chất lượng sống cho nhóm dân số này.
Một thách thức quan trọng khác trong quá trình già hóa dân số hiện nay là sự thiếu hụt cơ sở dữ liệu đầy đủ, chuẩn hóa và cập nhật về NCT. Vẫn tồn tại sự chênh lệch giữa các nguồn số liệu, không chỉ về tổng số NCT mà cả về các khía cạnh số lượng NCT được tiếp cận các dịch vụ liên quan đến sức khỏe, an sinh và đời sống xã hội. Chưa có sự phân tách cụ thể về giới tính, vùng miền, điều kiện sống, tình trạng sức khỏe, v.v. để từ đó có thông tin chính xác, rõ ràng, phục vụ công tác hoạch định chính sách và phân bổ nguồn lực.
Cơ hội từ già hóa dân số
Trong “nguy” có “cơ”. Bên cạnh những thách thức đặt ra, quá trình già hóa dân số cũng mở ra nhiều cơ hội quan trọng nếu được nhìn nhận đúng đắn và có chiến lược khai thác phù hợp.
Trước hết, không nên đánh đồng NCT như một nhóm đồng nhất gồm những người già, yếu, thụ động, chỉ gắn với nhu cầu chăm sóc và hỗ trợ. Thay vào đó, cần nhìn nhận một cách khách quan và đầy đủ hơn về năng lực, vai trò và tiềm năng đóng góp của NCT đối với gia đình, cộng đồng và xã hội, trong suốt bề dày lịch sử dân tộc và trong đời sống hiện đại ngày nay. Việc khẳng định đúng vị thế của NCT là nền tảng để xây dựng các chính sách phù hợp, từ đó phát huy hiệu quả “vốn quý” xã hội đặc biệt này trong bối cảnh dân số đang già hóa nhanh chóng.
Nhìn chung, đặc điểm của NCT ở độ tuổi 60-70 tuổi (sơ lão) có sự khác biệt so với NCT ở độ tuổi 70-80 tuổi (trung lão), và 80 tuổi trở lên (đại lão). Hiện nay, hơn 85% NCT tại Việt Nam ở độ tuổi dưới 80 – nhóm tuổi mà phần lớn vẫn còn minh mẫn, có sức khỏe tương đối tốt và khả năng lao động nếu được tạo điều kiện phù hợp. Phân tích từ Điều tra Biến động dân số và Kế hoạch hóa gia đình năm 2021 cho thấy tỷ lệ phần trăm NCT tự đánh giá sức khỏe ở mức bình thường đến rất tốt đạt đến 84%, số tự đánh giá có sức khỏe yếu chỉ chiếm 16%. Như vậy, NCT không chỉ là nhóm đối tượng yếu thế, chỉ cần chăm sóc mà hoàn toàn có thể tiếp tục phát huy vai trò chủ động, đóng góp vào phát triển kinh tế-xã hội. Theo Điều tra quốc gia về NCT năm 2021, trung bình có khoảng 42,8% NCT vẫn đang tham gia lao động, tạo ra thu nhập và của cải vật chất cho gia đình và cộng đồng. Đặc biệt, trong nhóm tuổi từ 60-69, tỷ lệ NCT tiếp tục lao động đạt ít nhất 60%, chủ yếu trong khu vực phi chính thức như nông nghiệp, buôn bán nhỏ, dịch vụ cộng đồng hoặc tham gia các hoạt động tự sản tự tiêu. So sánh giữa hai cuộc tổng điều tra dân số và nhà ở 2009 và 2019 cũng cho thấy NCT có trình độ học vấn ngày càng cao, thể hiện bằng tỷ lệ NCT có bằng trung học phổ thông hoặc cao hơn tăng lên giữa hai cuộc tổng điều tra. Như vậy, để phản ánh đúng thực tế về sự cải thiện trong sức khỏe, trình độ, năng lực và cả mong muốn tiếp tục lao động của NCT, các chính sách và mô hình can thiệp liên quan đến NCT và già hóa dân số cần được thiết kế theo hướng cân bằng giữa chăm sóc và phát huy, đồng thời phân hóa phù hợp theo từng nhóm tuổi và khả năng.
Một đặc điểm đáng quý nữa của NCT Việt Nam là tinh thần trách nhiệm cộng đồng cao. Tại các địa phương, nhiều NCT rất tích cực, thậm chí là nòng cốt của các tổ chức, hội đoàn, mặt trận, câu lạc bộ và nhóm tình nguyện. Họ là hạt nhân thúc đẩy các phong trào địa phương, truyền dạy giá trị văn hóa, giữ gìn truyền thống và hỗ trợ thế hệ trẻ. Trong nhiều cộng đồng nông thôn và dân tộc thiểu số, tiếng nói của NCT có ảnh hưởng lớn trong việc duy trì sự gắn kết xã hội, gìn giữ hòa khí và hỗ trợ giải quyết các mâu thuẫn xã hội tại cơ sở. Việc phát huy vai trò “người hướng dẫn”, “người hòa giải” và “người gìn giữ văn hóa” của NCT có thể góp phần giảm tải cho bộ máy chính quyền cơ sở, tăng cường sự ổn định và gắn bó cộng đồng. Nghiên cứu đánh giá chênh lệch giữa cung và cầu trong các dịch vụ dành cho NCT cho thấy nhiều nhu cầu thiết yếu của NCT vẫn chưa được đáp ứng đầy đủ. Trong đó, nổi bật là các nhu cầu được kết nối xã hội, có bạn bè để giao lưu, chia sẻ nhằm giảm cảm giác cô đơn; được hỗ trợ để duy trì cuộc sống độc lập, tự chăm sóc bản thân; cũng như có cơ hội tiếp tục làm việc, cống hiến và tham gia vào các hoạt động vì cộng đồng. Rõ ràng, đây đều là những nguyện vọng chính đáng và phản ánh sâu sắc mong muốn được sống tự chủ, có giá trị và tiếp tục đóng góp của NCT. Thỏa mãn những nguyện vọng này không chỉ góp phần nâng cao chất lượng sống cho NCT mà còn giúp phát huy một cách hiệu quả nguồn lực xã hội đặc biệt mà nhóm dân số này mang lại.
Việc dịch chuyển từ cách tiếp cận “chăm sóc thuần túy” sang mô hình “chăm sóc gắn với phát huy” là xu hướng tất yếu trong bối cảnh già hóa dân số, đồng thời phù hợp với nguyên tắc tiếp cận dựa trên quyền con người và sự tham gia chủ động của NCT trong phát triển. Cũng cần ghi nhận rằng trong thời gian qua, đã có những bước tiến về chính sách nhằm tăng cường vai trò và sự tham gia của NCT. Tiêu biểu là Chiến lược Quốc gia về NCT, Đề án tăng cường sự tham gia của NCT trong chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, khởi nghiệp và tạo việc làm – cho thấy sự thay đổi trong cách nhìn nhận NCT không chỉ là nhóm cần hỗ trợ mà còn là chủ thể phát triển. Tuy nhiên, để những chính sách này thực sự đi vào cuộc sống và mang lại tác động bền vững, cần có thêm nhiều nỗ lực trong khâu tổ chức thực hiện, nguồn lực bảo đảm và cơ chế phối hợp đa ngành.
Việc NCT tăng nhanh cả về tỷ trọng và số lượng cũng mở ra tiềm năng phát triển mạnh mẽ cho các ngành hàng và dịch vụ hướng đến nhóm tuổi này – được gọi là “nền kinh tế bạc” – một xu hướng kinh tế mới nổi mà càng ngày càng có nhiều nước trên thế giới phát hiện và khai thác thành công. Đây là cơ hội để thúc đẩy đổi mới sáng tạo trong các lĩnh vực như y tế, công nghệ hỗ trợ, giáo dục, nhà ở thích ứng, du lịch, văn hóa và chăm sóc dài hạn. Kinh nghiệm từ các quốc gia như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đức cho thấy đầu tư vào nền kinh tế bạc không chỉ đáp ứng nhu cầu xã hội mà còn tạo ra hàng triệu việc làm và cơ hội đổi mới sáng tạo. Tóm lại, NCT không chỉ là đối tượng cần hỗ trợ, mà còn là một nguồn lực giàu tiềm năng nếu được khơi dậy và trao quyền đúng cách. Việc xây dựng các chương trình, mô hình phù hợp để phát huy vai trò, tiếng nói và đóng góp của NCT sẽ giúp Việt Nam chuyển hóa quá trình già hóa dân số thành một lợi thế chiến lược trong phát triển kinh tế – xã hội.
Sự phù hợp và cần thiết của Câu lạc bộ Liên thế hệ Tự giúp nhau
Với những đặc điểm về già hóa dân số và nhóm NCT Việt Nam đã phân tích như trên, cần có một mô hình can thiệp đáp ứng được nhiều yêu cầu đồng thời:
Thứ nhất, mô hình cần phù hợp với tốc độ già hóa dân số nhanh chóng và điều kiện kinh tế của Việt Nam. Cần có thể nhanh chóng triển khai trong thực tiễn, được thiết kế theo hướng chi phí hợp lý, hiệu quả xứng đáng với đầu tư, tận dụng được các nguồn lực sẵn có tại cộng đồng, hỗ trợ thực thi các chính sách, chương trình phát triển kinh tế-xã hội hiện có và mang lại lợi ích tối đa cho không chỉ NCT mà cả cộng đồng nơi có CLB.
Thứ hai, mô hình cần đảm bảo phù hợp với văn hóa Việt Nam – nơi tình gắn kết gia đình, tình làng nghĩa xóm, tinh thần tương trợ trong cộng đồng, là các truyền thống quý báu. Mô hình cần thể hiện được tính đoàn kết, thu hút được sự hưởng ứng, tự nguyện tham gia rộng rãi từ chính NCT, gia đình và cộng đồng.
Thứ ba, mô hình cần mang tính toàn diện, tức là đáp ứng được cả nhu cầu chăm sóc và phát huy của đa dạng NCT và các nhóm khác trong cộng đồng, phù hợp với xu hướng phối hợp đa ngành, tích hợp các dịch vụ.
Thứ tư, cần bảo đảm tính liên thế hệ – vừa tăng cường gắn kết xã hội, vừa tạo tiền đề cho sự tiếp nối mô hình.
Thứ năm, mô hình cần được thiết kế để NCT dễ dàng tiếp cận, đặt tại chính nơi NCT sinh sống.
Thứ sáu, phải đảm bảo tính bền vững – bao gồm tầm nhìn dài hạn về nguồn lực tài chính, chuyên môn và con người để duy trì hoạt động ổn định và hiệu quả.
Mô hình Câu lạc bộ Liên thế hệ Tự giúp nhau (CLB LTH TGN) đã được đánh giá và chứng minh là đáp ứng đầy đủ các tiêu chí nêu trên. CLB là mô hình dựa vào cộng đồng, hoạt động tại cấp thôn, bản, khu dân cư và do NCT trực tiếp tham gia điều hành, tổ chức, dưới sự hướng dẫn và hỗ trợ của Hội NCT các cấp và chính quyền địa phương. CLB có tính liên thế hệ, có tổ chức chặt chẽ nhưng vẫn linh hoạt để phù hợp với từng vùng, miền khác nhau. Các dịch vụ của CLB bao trùm, đáp ứng nhu cầu của các nhóm đối tượng khác nhau (NCT ở các độ tuổi, NCT là nữ, người nghèo, người khuyết tật, người khó khăn về mặt xã hội khác). Tám mảng hoạt động của CLB có tính toàn diện, đáp ứng được cả mục tiêu chăm sóc và phát huy vai trò NCT. CLB có sự gắn bó chặt chẽ với Hội NCT và là “cánh tay nối dài” hiệu quả của chính quyền cơ sở và các ban, ngành, đoàn thể trong thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội. Nếu như giai đoạn 1 và 2 của Đề án nhân rộng CLB LTH TGN trong các năm trước đóng vai trò đặt nền móng – giúp các địa phương tìm hiểu, thử nghiệm và từng bước hoàn thiện mô hình, thì giai đoạn tới cần được xác định là bước chuyển chiến lược: mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng và gia tăng chiều sâu tác động. Đây sẽ là giai đoạn then chốt để đưa CLB LTH TGN trở thành một nhân tố cộng đồng quan trọng, gắn bó chặt chẽ với hệ thống chính sách và góp phần hiện thực hóa các mục tiêu phát triển bền vững về già hóa dân số, an sinh và phát huy vai trò NCT.
Tác giả: Việt Nga
Để lại một bình luận